Theo kế hoạch sáng 03/03 đoàn xuất phát từ UBND Quận Hải An do trưởng đoàn Nguyễn Nam Giang làm trưởng đoàn theo cung đường World Bank- Quốc lộ 10 điểm đầu tiên đoàn dừng chân lễ tại đền Đồng Bằng.
Một số nét về đền Đồng Bằng: Tương truyền thờ Đức Vua cha Bát Hải. Nằm trên địa bàn xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, Tỉnh Thái Bình. Đền được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia. Là một quần thể di tích mang trong mình một truyền thuyết về nơi khai sinh và hóa thánh của 8 thánh có công chống giặc cứu nước. Đền Đồng Bằng tương truyền thờ Đức Vua cha Bát Hải. Nằm trên địa bàn xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, Tỉnh Thái Bình. Đền được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp Quốc gia. Là một quần thể di tích mang trong mình một truyền thuyết về nơi khai sinh và hóa thánh của 8 (Bát vị) thánh có công chống giặc cứu nước. Để tưởng nhớ công đức của các vị nhân dân đã dựng đền và tổ chức lễ hội vào tháng 8 âm lịch hàng năm. Tướng quân diện súy Phạm Ngũ Lão đã bái yết cửa đền trước khi xuất trận và lưu bút đền thờ nơi "Tứ cố cảnh Lý Triềư' này. Tục truyền, đền được khởi dựng khá sớm, trải qua các triều đại, thiên nhiên, giặc giã hoành triệt, đền được tu tạo nhiều lần. Công trình kiến trúc hiện nay có niên đại Khải Định năm thứ 10 (1926).Toạ lạc trên một diện tích gần 6000 m2, toàn bộ công trình được xây dựng của đền Đồng Bằng gồm có 13 toà, 66 gian, kết cấu theo kiểu tiền nhị hậu đỉnh liên hoàn khép kín, rất nguy nga bề thế.
Khung cảnh trước đền Đồng Bằng
Các mảng kiến trúc của công trình rất mềm mại, hài hoà với các nét chạm trổ tinh vi, hàng trăm câu đối, đại tự, cuốn thư sơn son thếp vàng với các chủ đề về tứ quý, tứ linh, hiện thực thiên nhiên vừa thần thoại vừa huyền ảo nhưng cũng rất sống động và đời thường. Có thể nói, đền Đồng Bằng mang đậm phong cách kiến trúc truyền thống trong văn hoá làng xã Bắc Bộ nhưng lại ảnh hưởng bởi kiến trúc Huế những năm đầu thế kỷ. Đó là nghệ thuật ghép gốm và mái tứ diện chồng diêm, âu cũng là sự giao thoa văn hoá và cũng từ đó càng làm gia tăng vẻ đẹp mê hồn của ngôi đền độc nhất vô nhi trên vùng đất này.
Đoàn rời đền Đồng Bằng và điểm đến tiếp theo là đền Tiên La
Một số nét về đền Tiên La: là ngôi đền thờ Bát Nàn tướng quân (tướng quân phá nạn cho dân, có nơi gọi là "bát nạn" hay "bát não") Vũ Thị Thục (sinh năm 17, mất năm 43), một nữ tướng của Hai Bà Trưng có công đánh Tô Định.
Bát Nàn tướng quân tên là Thục, tục gọi Thục Nương, khởi nghĩa ở vùng Tiên La (nay thuộc Thái Bình). Đến thời nhà Lê thì thần phả làng Tiên La được sửa chữa, tên bà được ghi chép là Vũ Thị Thục hay Vũ Thục Nương.
Sinh thời, Vũ Thị Thục là người phụ nữ tài sắc vẹn toàn, đẹp người, đẹp nết, giàu lòng nhân ái, yêu nước, thương dân. Năm 16 tuổi, Thục Nương đều được ai nấy tôn sùng là "Nữ tiên hạ thế". Bà còn dạy dân phát triển nghề nông, sáng tác những bài hát dân ca và truyền dạy hát đối, hát xoan, hát đúm vẫn còn truyền lại đến nay ở vùng Phú Thọ, Vĩnh Phúc, lại chỉ bảo dân thời ấy quần tụ lại để xây dựng, phát triển xã – thôn Việt trong vùng Phong Châu từ những năm đầu thế kỷ I SCN. Năm 18 tuổi, bà đính hôn với Phạm Danh Hương, con một hào trưởng ở Nam Chân. Danh tiếng về sắc đẹp của Bát Nàn đến tai Thái thú Tô Định. Hắn muốn lấy nàng làm thiếp, nhưng bị từ chối. Tức giận, hắn lừa Phạm Danh Hương và cha của Bát Nàn tới phủ, gài cho họ tội phản quốc và giết chết họ. Sau đó, hắn sai quân đến Phượng Lâu bắt Bát Nàn về. Không để rơi vào tay Tô Định, Bát Nàn cầm đao một mình phá vòng vây và chạy thoát về Tiên La (nay thuộc Thái Bình). Ở chùa Tiên La, nàng được các thiền sư chùa Tiên La đón nhận. Với sự giúp đỡ của họ, nàng dần dần tu tập và trấn tĩnh, đồng thời huấn luyện võ thuật cho các sư để bảo vệ chùa khỏi bàn tay giặc Hán. Tại đây, nàng âm thầm rèn luyện, chiêu binh mãi võ. Về sau, bà dựng cờ khởi nghĩa mang 4 chữ vàng "Bát Nạn tướng quân"
Mùa xuân năm Canh Tý (40), Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa. Vì đã nghe uy danh của Bát Nàn nên lúc Hai Bà Trưng phát động cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước thì ngay lập tức Hai Bà Trưng cho sứ giả sang mời Bát Nàn hội quân cùng đánh Tô Định. Bát Nàn cùng đội binh sĩ hưởng ứng, cùng các nữ tướng của Hai Bà Trưng đánh bại quan quân Đông Hán. Tô Định chạy trốn về Nam Hải (Quảng Đông, Trung Quốc).
Sau khi đánh đuổi được quân đô hộ, Trưng Trắc được suy tôn làm vua (Trưng Vương). Trưng Vương phong tặng nàng danh hiệu Đông Nhung Đại Tướng Quân. Về sau, bà tham gia chống quân xâm lược nhà Hán của Mã Viện.
Năm 42, vua Hán sai tên tướng Mã Viện đem quân sang tái chiếm nước ta. Quân ta đã chiến đấu rất anh dũng nhưng cuối cùng vẫn thất bại. Sau khi Hai Bà Trưng hi sinh, bà lui về hương Đa Cương tiếp tục chống giặc. Quân Hán đã tập trung toàn bộ lực lượng để đàn áp. Sau 39 ngày đêm giao tranh ác liệt, bà cho mở đường máu chạy về gò Kim Quy (thôn Tiên La, xã Đoan Hùng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ngày nay). Biết đã thất thế, bà chạy đến gốc một cây tùng lớn rồi tuốt gươm tuẫn tiết.
Đoàn dâng lễ tại đền Tiên La
Một số nét về đền Trần (Thái Bình)
Khu di tích Quốc gia đặc biệt Đền thờ và lăng mộ các vua Trần (Thái Bình) nằm ở phía Bắc của tỉnh Thái Bình, thuộc làng Tam Đường, xã Tiến Đức huyện Hưng Hà, đền nằm gần QL39, cầu Thái Hà bắc qua sông Hồng, tuyến đường Thái Bình - Hà Nam nối cao tốc Hà Nội - Hải Phòng (CT04) với cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình (CT01) và ở rất gần các thành phố xung quanh.
Trên diện tích 5175m2, đền thờ các vua Trần, Đức thánh Trần Hưng Đạo, Hoàng hậu và Công chúa triều Trần đã được xây dựng công phu, uy nghi bề thế toạ lạc trên nền phế tích nằm giữa trung tâm xã Tiến Đức với các hạng mục đã hoàn thành là toà hậu cung, toà bái đường, tả vu, hữu vu, nghi môn, đài hoá vàng, ba ngôi mộ các vua Trần và một số công trình kiến trúc liên quan.
Kiến trúc chung gồm 3 đền chính:
- Đền Vua thờ tổ tiên họ Trần, Thái Tổ Trần Thừa và 3 vị vua Trần đầu Triều Trần.
- Đền Thánh thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cùng gia quyến.
- Đền Mẫu thờ Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị Dung, các hoàng hậu, hoàng thái hậu, thái hậu và công chúa Triều Trần.
Đây là một tổng thể kiến trúc rộng lớn, là nơi thờ tự các vua Trần. Các công trình kiến trúc được bố trí theo trục chính, chia thành các không gian như: không gian hành lễ, không gian nội tự đền, không gian vườn cây xanh, là một công trình kiến trúc kế thừa và phát huy truyền thống kiến trúc dân tộc - kiến trúc đình làng. Riêng Toà hậu cung đền Trần là một phần trong tổng thể kiến trúc có kết cấu chữ đinh, gồm hai toà tám gian, trên diện tích 359m2, được khởi dựng bởi sự tài hoa của những người thợ; sự góp mặt của đá trong hợp thể kiến trúc tôn vinh vẻ uy linh của hậu cung với hệ thống rồng đá được chạm trổ tinh vi, sống động.
Nơi đây được gọi là Thái Đường Lăng, hiện còn di tích là ba ngôi mộ táng ba vị vua đầu tiên của Triều Trần là Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông.
Đoàn ghi hình lưu niệm tại đền Trần Thái Bình
Rời đền Trần cả đoàn ăn trưa nhà hội viên tại Thành Phố Thái Bình buổi chiều đoàn di chuyển dâng lễ tại Chùa Keo.
Chùa Keo có tên chữ là Thần Quang tự là một ngôi chùa ở xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Đây là một trong những ngôi chùa cổ ở Việt Nam, được công nhận là Di tích lịch sử - văn hoá Quốc gia và Di tích quốc gia đặc biệt.
Tương truyền, dưới thời vua Lý Thánh Tông, chùa Keo được xây dựng bởi Thiền sư Dương Không Lộ ở ven sông Hồng từ năm 1061 tại hương (làng) Giao Thủy, phủ Hà Thanh (nay là các xã thuộc ven sông Hồng huyện Nam Trực và Trực Ninh, tỉnh Nam Định, một số tài liệu nhầm lẫn huyện Giao Thủy thành lập muộn sau này). Tuy nhiên, theo "Thánh tổ thực lục diễn ca" lưu giữ ở chùa thì ban đầu chùa Keo có tên gọi là Nghiêm Quang Tự, sư tổ của chùa chính là Lý Triều Quốc Sư: Thiền sư Nguyễn Minh Không (pháp hiệu là Không Lộ). Đến năm 1167 mới đổi thành Thần Quang Tự. Vì làng Giao Thủy có tên Nôm là Keo, nên ngôi chùa này cũng được gọi là chùa Keo.
Sau gần 500 năm tồn tại, năm 1611, nước sông Hồng lên to, làm ngập làng Giao Thủy, nơi có chùa. Một bộ phận dân cư dời đi nơi khác, lập thành làng Hành Thiện, xây dựng nên ngôi chùa Keo mới, thường được gọi là chùa Keo Dưới (Keo Hạ) hay chùa Keo Hành Thiện (nay ở xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, Nam Định). Một bộ phận dân cư dời sang tả ngạn sông Hồng, lập làng Dũng Nhuệ trên đất Thái Bình và cũng dựng lên một ngôi chùa, gọi là chùa Keo Trên (Keo Thượng).
Công việc xây dựng ngôi chùa Keo Thượng được bắt đầu từ năm 1630 và hoàn thành vào năm 1632 theo phong cách kiến trúc thời Lê, nhờ sự vận động của bà Lại Thị Ngọc Lễ (Lại Thị Ngọc Lễ vốn thuộc dòng quyền quý, quê gốc ở làng Quang Lãng, huyện Tống Sơn, xứ Thanh Hoa, cụ tổ là quan huyện thừa Lại Thế Tương. Lại Thị Ngọc Lễ cùng em Lại Thế Nghĩa là con quan Phò mã Lãng quận công Lại Thế Thời, chắt nội Thái tể Khiêm quốc công Lại Thế Khanh, cháu ngoại Thanh Đô vương Trịnh Tráng.), vợ Tuần Thọ hầu Hoàng Nhân Dũng và Đông Cung Vương phi Trịnh Thị Ngọc Thọ. Chùa do Cường Dũng hầu Nguyễn Văn Trụ vẽ kiểu, phỏng theo kiến trúc của chùa Keo Hành Thiện. Sau khi xây dựng xong, chùa được trùng tu nhiều lần, vào các năm 1689, 1707, 1941... Lần trùng tu năm 1941, có sự giúp đỡ của Trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp.
Đoàn ghi hình lưu niệm tại chùa Keo Thái Bình
Kết thúc vãn cảnh dâng lễ tại đền chùa đoàn trên đường về được hội viên Lê Hoàng Diệu mời cơm thân mật cùng gia đình tại tư gia và trở lại Hải Phòng lúc 21h. Trong hành trình vãn vãn cảnh lễ tại các đền chùa mọi thành viên vui vẻ, trang nghiêm ghi nhiều kỉ niệm cùng nhau. Đây là sự kiện hàng năm diễn ra vào các dịp đầu cầu Bình An. Sự tham gia đông đủ của các thành viên thể hiện sự đoàn kết gắn bó của Hội doanh nghiệp Hải Phòng Quê hương Thái Bình.
--------------------
Hội doanh nghiệp Hải Phòng Quê hương Thái Bình
Đi hội đầu năm